Chùa Keo Hành Thiện Thờ Ai
CHƯƠNG TRÌNH DU XUÂN THÁI BÌNH - NAM ĐỊNH
Lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2024 sẽ có nhiều hoạt động đặc sắc
Chiều ngày 21/8, UBND huyện Vũ Thư triển khai kế hoạch tổ chức lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2024.
Huyện Vũ Thư triển khai kế hoạch tổ chức lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2024.
Lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2024 dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 12 - 19/10 (ngày 10 - 17/9 âm lịch). Tại phần lễ sẽ có các nghi thức truyền thống như lễ khai chỉ, lễ rước Đức Thánh, tế lễ, nghi thức hầu đồng… Trong phần hội, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ đặc sắc như: du thuyền hát hội, hát chèo, biểu diễn múa rối nước, têm trầu cánh phượng, múa trải cạn, sanh tiền mõ lộn, bắt vịt dưới hồ, võ cổ truyền…
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, huyện sẽ tổ chức hội chợ giới thiệu, quảng bá sản phẩm OCOP và sản phẩm chủ lực, đặc trưng của các địa phương với quy mô 150 gian hàng; đồng thời tổ chức lễ hội bánh và ẩm thực nhằm tăng sức hút của du khách đến với lễ hội chùa Keo.
Để tổ chức lễ hội thành công, huyện Vũ Thư thành lập Ban chỉ đạo, Ban tổ chức lễ hội, các tiểu ban phục vụ lễ hội và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Huyện đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, quảng bá về lễ hội và hội chợ; siết chặt công tác an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ tại lễ hội; tích cực mời gọi, thu hút các đơn vị trong và ngoài huyện có sản phẩm OCOP tham gia hội chợ.
Thông qua lễ hội chùa Keo nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống của quê hương, đồng thời quảng bá, giới thiệu mảnh đất, con người Vũ Thư với du khách thập phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Hội chợ giới thiệu sản phẩm OCOP tại chùa Keo, Thái Bình
(PLVN) - Sáng 24/10, tại chùa Keo, một di tích cấp Quốc gia đặc biệt ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, Ban tổ chức lễ hội chùa Keo 2023 đã khai mạc hội chợ nhằm quảng bá và giới thiệu các sản phẩm OCOP.
Đây là lần đầu tiên hội chợ sản phẩm được tổ chức trong suốt lễ hội chùa Keo mùa Thu, với hơn 20 gian hàng được sắp xếp xen kẽ. Sự kiện này thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở sản xuất kinh doanh, cũng như du khách từ huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình và huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Cổng vào lễ hội lễ hội chùa Keo mùa Thu 2023
Trong bài phát biểu khai mạc, bà Phạm Thị Như Phong, Chủ tịch UBND huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình) thông tin về ý nghĩa của chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP. Sau 4 năm triển khai, chương trình OCOP huyện Vũ Thư đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và lan tỏa rộng rãi tại các địa phương trên địa bàn. Chương trình đã tìm thấy nhiều mô hình và cách làm hiệu quả, cải thiện chất lượng và giá trị của sản phẩm nông nghiệp, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Huyện Vũ Thư hiện có 23 sản phẩm OCOP được công nhận bởi UBND tỉnh Thái Bình, trong đó có 16 sản phẩm 4 sao và 7 sản phẩm 3 sao. Nhiều sản phẩm OCOP từ các địa phương và doanh nghiệp đã nổi tiếng không chỉ trên thị trường trong tỉnh và trong nước, mà còn có mặt trên thị trường quốc tế. Điều này đã giúp các doanh nghiệp và các hộ sản xuất mở rộng quy mô, nâng cao giá trị sản phẩm và tăng thu nhập cho người dân.
Với sự ủng hộ của các địa phương trong và ngoài tỉnh Thái Bình, hội chợ trưng bày 48 sản phẩm OCOP từ các huyện, thành phố trong tỉnh, từ huyện Võ Nhai của tỉnh Thái Nguyên và 2 đơn vị từ Hà Nội.
Trước đó, vào sáng sớm cùng ngày, Ban tổ chức lễ hội tiến hành nghi thức Khai chỉ và mở cửa đền Thánh với sự tham gia của lãnh đạo huyện, lãnh đạo địa phương và đông đảo tín đồ phật tử, du khách và người dân.
Tối nay, 24/10, lễ khai mạc chính thức của lễ hội sẽ được tiến hành với chương trình nghệ thuật "Linh thiêng đất Phật" kéo dài 90 phút.
Lễ hội diễn ra trong 6 ngày, từ 24/10 đến ngày 29/10 (tương ứng từ ngày 10 - 15/9 Âm lịch) với nhiều hoạt động văn hóa, tâm linh và tín ngưỡng mang tính đặc sắc bao gồm: Du thuyền hát giao duyên, các hoạt động tế lễ Phật và Thánh, rước kiệu Thánh, liên hoan các câu lạc bộ chèo, biểu diễn múa rối nước và đêm hội hoa đăng.
Thập thiện nghiệp là cội gốc của tất cả pháp lành thế gian và xuất thế gian.
Trong hai bài “Nhân quả” và “Luân hồi” mà chúng ta đã học, chúng ta đã thấy một cách tường tận rõ ràng: Hễ chúng ta gieo nhân gì thì chúng ta gặt quả ấy hoặc ngay trong đời hiện tại, hoặc trong những đời sau. Nhân nhỏ thì quả nhỏ, nhân lớn thì quả lớn.
Nếu muốn được quả làm người thì phải gieo nhân làm người. Nhân làm người là sự chuyên giữ năm giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu). Với nhân nầy, ta được cái quả trong hiện tại là mọi người từ trong gia đình quyến thuộc cho đến ngoài xã hội, đều thương yêu quí trọng. Nhưng nếu chúng ta muốn tiến xa hơn một bực nữa, chúng ta gắng tu Thập Thiện Nghiệp. Với cái nhơn tu Thập Thiện Nghiệp, chúng ta sẽ hưởng được cuộc sống an lạc trong hiện tại và đời sau, chúng ta sẽ sanh lên sáu từng Trời cõi Dục, hưởng cảnh vui thú, an nhàn.
Nếu chúng ta muốn vượt khỏi ba cõi thế gian, để chứng quả Tam Thặng (Thanh Văn, Duyên Giác Và Bồ Tát), ta phải tu nhân Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên và Lục Độ. Tuy thế, muốn thực hiện được các môn tu nầy, không thể bỏ qua được môn tu Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp như là nấc thang quan trọng cần phải vượt qua, nếu muốn trèo lên cao nữa. Nó như là cơ sở căn bản, hạ tầng vững chắc nhất, để xây dựng lâu đài cao lớn lên trên. Vì lẽ đó, người ta nói Thập Thiện Nghiệp là cội gốc của tất cả các pháp lành thế gian và xuất thế gian.
“Thập thiện nghiệp” là 10 nghiệp lành.
“Nghiệp” là tiếng người Trung Hoa dịch từ chữ Phạn Karma mà ra. Nó có nghĩa là tạo tác, hành động. Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Dữ, nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai.
II. CHỖ PHÁT KHỞI MƯỜI NGHIỆP DỮ VÀ MƯỜI NGHIỆP LÀNH
Nghiệp thì nhiều, không thể kể xiết được. Nhưng tựu trung, người có thể phân ra mười loại nghiệp lành và mười loại nghiệp dữ. Những loại nghiệp nầy do ba chỗ phát khởi sau đây: Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ).
Những nghiệp dữ chia ra như sau:
a) Những nghiệp dữ về Thân có ba là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật.
b) Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn là: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
c) Những nghiệp dữ về Ý có ba là: Tham lam, giận hờn, si mê.
Cộng tất cả Thân, Khẩu, Ý thì có mười nghiệp dữ.
Nếu con người làm ngược lại với 10 nghiệp dữ trên đây thì sẽ có được 10 nghiệp lành. Mười nghiệp lành chia ra như sau:
a) Về Thân có ba: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dật.
b) Về Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác.
c) Về Ý có ba: Không tham lam, không giận hờn, không si mê.
III.Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA MƯỜI NGHIỆP LÀNH
Không có sự vui mừng nào hơn sự vui mừng khỏi bị giết. Cũng chẳng có ân huệ nào hơn ân huệ không hại mạng.
Khi một con chim sắp bị cắt cổ nhổ lông, một con cá sắp bị chặt kỳ, đánh vẩy, thế mà được thả ra, thì hãy tưởng tượng nỗi vui sướng của chúng, lớn lao là bao nhiêu! Chim sẽ nhảy nhót, tung bay, kêu hót giữa khoảng trời rộng; cá sẽ vùng vẫy, bơi lội, giữa khoảng nước sâu. Thế mới rõ, thoát nạn giết hại, chúng sinh nào lại không khấp khởi vui mừng? Cho nên, không sát sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện Nghiệp.
Không sát sanh cũng như không ăn thịt chúng sanh thì khỏi phạm hai tội lớn sau đây:
a) Giết hại các bực vị lai Phật. Vì Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều là chư Phật vị lai”
b) Giết lộn bà con nhiều đời, ăn lầm bà con nhiều kiếp.
Trong kinh Bồ tát giới có nói: “Tất cả lục đạo chúng sinh đều là họ hàng ta, cha mẹ ta đã chết đi rồi sanh lại trong nhiều đời nhiều kiếp”.
Người hằng ngày không sát sanh thì trong đời sống hiện tại sẽ mở rộng thêm lòng từ bi, là một nhân chánh để tu hành thành Phật, và được mười pháp lành, như kinh Thập Thiện Nghiệp đạo đã nói, dưới đây:
a) Tất cả chúng sinh đều kính mến
b) Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh
d) Thân thể thường được khỏe mạnh
e) Thường được thiên thần hộ trợ
ê) Ngủ ngon giấc và không chiêm bao dữ
i) Sau khi chết, được sinh lên cõi Trời.
Không trộm cắp là không lấy những vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình, và người ta không cho mình.
Quyền tư hữu là một quyền quan trọng. Ðã đành, mạng sống là quý trọng, nhưng nếu có mạng sống mà không có đủ vật thực, áo quần, nhà cửa, những thứ cần thiết để cung cấp cho thân mạng, thì người không thể sống được. Vì thế, mọi người đều thấy mình cần phải nỗ lực làm việc, để có tài sản đủ bảo đảm cho đời sống hiện tại và tương lai của mình và con cháu. Người đời quý trọng tài sản là vì thế. Nếu vì một lý do, bất chính, người ta bị tước đoạt mất tài sản, thì người ta cũng đau khổ, buồn phiền như chính mình bị mất một phần sinh mạng. Tiền của là huyết mạch, cho nên khi bị trộm cắp hết của cải, nhiều người đã thất vọng, buồn phiền đến sinh đau ốm, có khi đến quyên sinh. Như vậy, ai nỡ lòng nào trộm cắp cho đành!
Vả lại, theo lẽ công bình, mình không muốn ai lấy của mình, thì mình đừng lấy của ai. Việc gì mình không muốn người làm đau khổ cho mình, thì mình cũng đừng làm đau khổ cho người. Xã hội chỉ tồn tại được, khi mọi người đều tôn trọng lẽ công bằng.
Vả lại, của phi nghĩa, thường vào cửa trước ra ngõ sau, tiêu hao mau lẹ như nước xoi, cát chảy, rốt cuộc, tay trắng cũng lại hoàn tay trắng, mà còn lại bị người đời khinh khi, phỉ nhổ, xấu hổ cho mình và con cháu về sau.
Trái lại, người không trộm cắp, bao giờ lòng dạ cũng được thảnh thơi, không sợ luật pháp truy tầm, chẳng lo ai thù oán. Một xã hội không có trộm cắp, thì nhà nhà khỏi đóng cửa, của đánh rơi không mất, cảnh tượng giành giựt không diễn ra, xã hội được thái bình an lạc:
Nếu không gian tham trộm cắp, mà lại làm hạnh bố thí thì theo kinh Thập Thiện Nghiệp, được những pháp lành như sau:
a) Tiền của có dư không bị nạn giặc giã cướp mất, chánh quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá tán.
d) Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình
đ) Lòng được an ổn, không lo sợ vì sự tổn hại gì cả
e) Khi chết rồi được sanh lên cõi Trời
Dâm dật là cái nhân sanh tử luân hồi. Nó là ma chướng làm ngăn trở bước đường tu giải thoát. Bởi vậy, người xuất gia muốn chứng quả, thành đạo, phải đoạn trừ dâm dật ở thân cũng như ở tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Lòng dâm không trừ, thì không thể ra khỏi trần lao“.
Còn người tại gia, Phật chỉ ngăn tà dâm, nghĩa là vợ chồng có cưới hỏi chánh thức mới được ăn ở, nhưng phải có tiết độ, không lang chạ, ngoại tình.
Trong gia đình, chồng không tà dâm, vợ không lang chạ, thì cuộc sống chung được đầm ấm, an vui. Do đó, gia đình được hạnh phúc, sự làm ăn tấn phát, sự nghiệp vững bền, bà con đôi bên vui vẻ, dòng họ hai phía thơm lây, xóm giềng vừa lòng, làng nước quí chuộng.
Kinh Thập Thiện Nghiệp đạo nói:
Không tà dục và giữ được tịnh hạnh sẽ được bốn điều lợi:
a) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn
b) Ðoạn trừ hết những sự phiền não, quấy nhiễu
c) Không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái
d) Ðược tiếng tốt, người đời khen ngợi
Không nói dối là nghĩ thế nào nói thế ấy, trong lòng và lời nói không trái nhau, việc phải thì nói phải, việc quấy thì nói quấy, việc có thì nói có, chuyện không thì nói không.
Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta quen với thói xấu ấy, và làm cho người chung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật.
Nói dối vì sợ hãi, khiếp nhược, lại càng nên tránh, vì nó làm cho ta quen tánh che giấu tội lỗi, và không chịu sửa chữa.
Nói dối để thu lợi hay khoe khoang, lại càng nặng tội. Nhà buôn nói dối rất dễ ế hàng; và nhất là kẻ học đạo, nếu nói dối rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác.
Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy cho người và vật mới không phạm tội.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói dối mà lại nói lời ngay thật, thì được những điều lợi ích như sau:
b) Thế gian và nhân, thiên đều kính yêu
c) Lời nói không lầm lộn và vui vẻ
d) Trí tuệ thù thắng, không ai hơn
đ) Ðược hưởng lạc thú như ý nguyện và ba nghiệp đều trong sạch.
Không nói thêu dệt, nghĩa là không trau chuốt lời nói, không thêu hoa, dệt gấm, không ngọt ngào đường mật, để lung lạc lòng dạ của người, để quyến rũ làm những điều sái quấy. Những kẻ nói lời thêu dệt là những kẻ có lòng dạ bất chính, lợi dụng lòng dễ tin của người để trục lợi. Những người nầy thường bị người đời chê cười, khinh rẻ và tránh xa, để khỏi bị tổn hại tài sản, danh giá và tánh mạng nữa.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời thêu dệt sẽ được ba điều lợi ích:
b) Hay đáp được những câu hỏi khó khăn
c) Ðược làm người có uy đức, cao quý trong cõi nhân thiên.
Không nói lưỡi hai chiều, hay nói hai lưỡi, nghĩa là không đến bên nầy nói xấu bên kia, không đến bên kia nói xấu bên này; không đem chuyện người nầy ra dèm pha, mà cũng không khêu chuyện người nọ ra nhạo báng; không làm cho đôi bên sân hận đấu tranh, cũng không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán. Tóm lại, người không nói hai lưỡi là người không có ác tâm, không dùng lời trái ngược để làm cho những kẻ thân thành thù, gần thành xa.
Người không nói hai lưỡi, không khi nào có chuyện lôi thôi với bà con, và cũng không có việc phiền muộn với hàng xóm, nên được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần kính mến. Người không nói hai lưỡi mà còn nói những lời êm ái hòa thuận, làm cho bạn bè thêm kính trọng nhau, bà con thêm tin yêu nhau, khiến cho ai ai cũng vui vẻ bằng lòng nhau. Những người ấy đi đến đâu cũng được tiếp đãi tử tế, gặp việc gì khó cũng dàn xếp được dễ dàng.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói hai lưỡi, sẽ được những điều lợi ích sau đây:
a) Bà con, dòng họ được luôn luôn sum họp
b) Tình bằng hữu của thiện tri thức được vững bền bất hoại
Không nói hung ác là không nói những lời hung dữ ác độc, cộc cằn, thô tục làm cho người nghe khó chịu; không mắng nhiếc làm cho người nghe hổ thẹn, tủi đau v.v…
Người không nói lời hung ác, chẳng hề bươi móc việc không hay của ai, mà trái lại, ưa bày những điều tốt đẹp của kẻ khác. Lời lẽ của họ thốt ra dịu dàng, thanh nhã, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không nói lời hung ác mà lại nói lời ôn hòa, được những công đức như sau:
a) Nói lời nào cũng khôn khéo đúng lý và lợi ích
b) Nói điều gì, ai cũng nghe theo và tin cậy
c) Nói ra lời nào cũng không ai chỉ trích mà còn được mến yêu.
Ở đời, có 5 món dục lạc, mà người ta thường tham muốn nhất là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Ngũ trần dục lạc ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Như tham tiền của phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính, để thâu tóm về mình, và khi mất thì lại vô cùng đau khổ. Tham sắc thì tốn tiền nhiều, lại mất sức khỏe và hao tổn tinh thần; nhiều khi lại tìm những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng ước muốn; nếu không được, lại đâm ra ghen tương, thù hận, giết chóc. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí, mất ăn bỏ ngủ, đôi khi lại còn làm trò cười cho người chung quanh. Tham ăn uống cao lương mỹ vị, thì bị nhiều bịnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ, ngủ sớm dậy trưa, thì trí não hóa đần độn, tối tăm.
Ngũ dục lạc chính là những nguyên nhân chính ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa.
Người không tham muốn những thứ ấy, là người biết tu hành Thiểu Dục và Tri Túc. Thiểu Dục là muốn ít; Tri Túc là biết đủ. Người Thiểu Dục, Tri Túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn.
Xã hội nếu chỉ gồm những hạng người ấy, thì những thảm trạng: kẻ mạnh hiếp người yếu, kẻ giàu đàn áp người nghèo, người nghèo oán hận kẻ giàu, không còn tiếp diễn, và cõi đời cũng được sống trong cảnh thanh bình an lạc.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không tham muốn thì được thành tựu những điều tốt đẹp sau đây:
a) Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, vì nhân các căn đều đầy đủ
b) Của cải không mất mát, hay bị cướp giựt
d) Những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình không mong ước.
Không giận hờn là vẫn giữ sự bình tĩnh, điềm đạm, nhu hòa trước những cảnh trái ý nghịch lòng.
Giận hờn là một tánh xấu rất tai hại, nó như một ngọn lửa dữ, đốt cháy cả mình lẫn người chung quanh. Kinh Phật có câu:
“Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm, nghìn cửa nghiệp chướng đều mở. Lửa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức“.
“Dằn tâm giận xuống một lúc thì khỏi lo sợ cả trăm ngày. Nên chi việc đáng nhịn thì nhịn, chuyện đáng răn thì răn. Nếu chẳng nhịn chẳng răn, thì việc nhỏ hóa ra to. Bao nhiêu điều phiền não, đều do chẳng nhịn mà ra“.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người nào không giận tức, thì được tám món tâm pháp, vui mừng như sau:
e) Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh
ê) Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh đều tôn kính
g) Có đức nhẫn nhục, được mau sinh lên cõi Phạm Thiên.
Không si mê là biết phán đoán rành rẽ, nhận định rõ ràng, đúng đắn, không cố chấp theo sự hiểu biết riêng của mình, không tin những thuyết không hợp chơn lý, nhất là không mê tín dị đoan.
Người không si mê, tức là người có trí huệ, giản trạch, tin có nhân quả luân hồi, nên không tạo tội mà cứ làm phước, thường tu hạnh Bát nhã, dứt trừ vô minh, để tiến mãi trên con đường giải thoát.
Theo kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, người không si mê, thì thành tựu được 10 pháp công đức sau đây:
a) Ðược ý vui chơn thiện và bạn chơn thiện
b) Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác.
c) Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo
d) Tâm được ngay thẳng, chánh kiến
đ) Sanh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác
e) Phúc huệ không lường, thường tăng lên mãi
ê) Dứt hẳn đường tà, chăm tu đạo chánh
g) Không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp
Mười nghiệp lành, cũng như mười nghiệp dữ, đều do thân, khẩu, ý phát khởi ra. Nghiệp dữ ví như cỏ, nghiệp lành ví như lúa, đều mọc chung trên một đám ruộng. Cỏ thường làm chướng ngại lúa, không cho sinh trưởng tốt tươi. Nếu muốn lúa tốt để mãn mùa thu hoạch được nhiều, thì phải nhổ sạch cỏ. Cũng thế, muốn được nghiệp lành, thì cần phải dứt hẳn mười nghiệp dữ.
Hàng phục mười nghiệp dữ, mỗi ngày cứ phát triển nghiệp lành mãi, thì sẽ được bốn điều lợi ích sau nầy:
Thân tâm con người thường bị nghiệp lực chi phối. Sự thực hành mười nghiệp lành, sẽ hoán cải thân tâm con người trở thành tốt đẹp. Dụ như không sát sanh mà lại phóng sanh, thì lòng hung ác sẽ đổi ra lòng từ bi, sự oán thù sẽ đổi ra thành ân nghĩa.
Hoàn cảnh cũng như tấm gương lớn phản ảnh tất cả những cử chỉ hành động, đời sống của mỗi người.Nếu ta cười thì tấm gương cười lại; nếu ta khóc, tấm gương cũng khóc lại. Cũng thế, nếu ta làm các việc lành, giúp ích đồng loại, cứu vớt chúng sinh, thì hoàn cảnh đối với ta, sẽ trở thành cảnh giới tốt đẹp. Chẳng hạn, khi ta không giận hờn, lại tu hạnh nhẫn nhục, thì hoàn cảnh không có sự đấu tranh giết hại, mà chỉ là sự tương thân tương ái.
Tu Thập Thiện Nghiệp là gieo nhân tốt để đời sau gặt kết quả đẹp đẽ là sanh lên cõi Trời, hưởng phước lạc đầy đủ.
Mười phương ba đời, các vị hiền thánh thoát khỏi sanh tử, chứng quả vô thượng, đều lấy mười nghiệp thiện làm căn bản; vì mười nghiệp lành nầy, có công năng ngăn ngừa các hành vi độc ác, làm cho ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được thanh tịnh, nhờ đó, con người mới thoát ly sanh tử, chứng quả Niết-bàn. Nếu đem mười nghiệp lành nầy, hồi hướng cho toàn thể chúng sinh, thì sẽ được Phật quả.
Tóm lại, tu Thập Thiện Nghiệp thì trong đời hiện tại, thân tâm ta được cải thiện đẹp đẽ, hoàn cảnh ta sống được sáng sủa tươi vui; và tương lai ta tránh khỏi đọa lạc chốn tam đồ, lại được hưởng phước báu cõi Nhân, Thiên và Niết-bàn.
Vậy ước mong tất cả mọi người, nên tu Thập Thiện Nghiệp để tạo hạnh phúc cho mình và cho tất cả chúng sinh. Có như thế mới là bực trí huệ, biết làm theo lẽ phải. Vì một phen được thân người mà không tu để tiến hóa lên, thì khi mất nhân thân rồi, muôn kiếp khó trở lại được.
Plato, Aristotle và Thánh Tôma Aquinô đã dạy rằng Thượng Đế là Chân, Thiện, Mỹ. Để tìm kiếm điều gì là thật, điều gì là tốt hay là đẹp thì phải tìm kiếm Thiên Chúa. Trái ngược với niềm tin phổ biến, khi chúng ta tìm kiếm chân lý, điều thiện và vẻ đẹp, Thiên Chúa không trốn tránh chúng ta. Ngài để lại dấu vết gợi ý dẫn đến Ngài nếu chúng ta đủ quan tâm để tìm kiếm Ngài. Ngài làm điều đó vì Ngài biết chúng ta thích tìm tòi và khám phá.
Đây là sự thật: Cuộc sống là một trò chơi, và Thiên Chúa là người thiết kế trò chơi. Trong bài thơ “Hound of Heaven” (Tìm Kiếm Nước Trời), Francis Thompson nói rằng Ngài chạy trốn ông… ông chạy trốn Ngài, giống như con chó săn đuổi. Rõ ràng, đó là cách chơi trò chơi. Chúng ta chạy theo Ngài, Ngài chạy theo chúng ta – giống như trốn tìm – và cho dù chúng ta có thừa nhận hay không, chúng ta vẫn thường hồi hộp bởi việc chạy trốn và tìm kiếm. Chúng ta trốn Chúa ở một nơi nào đó mà chúng ta nghĩ rằng Ngài sẽ không tìm thấy chúng ta. Tất nhiên Ngài cùng chơi với chúng ta. Ngài tìm thấy chúng ta và chúng ta giật mình khi bị Ngài phát hiện. Sau đó, Ngài đi náu, nhưng chỉ đủ để làm chút thử thách cho chúng ta mà thôi, để giữ cho trò chơi thú vị. Chúng ta là những kẻ ngu ngốc, chúng ta đi ngang qua Ngài hết lần này đến lần khác mà không nhận thấy Ngài đang ở rất gần chúng ta.
Ngài đã tạo tác chúng ta giống như Ngài. Ngài hồi hộp tìm kiếm. Ngài biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta biết mình, nhưng trong tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, Ngài vẫn xúc động khi mạo hiểm chơi trò chơi với chúng ta. Chân, Thiện, Mỹ là những điều chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta đã tìm thấy Ngài. Vì Thiên Chúa là sự thật, nên Ngài biết mọi điều về chúng ta. Niềm vui của Ngài đến từ việc chúng ta tìm kiếm và học hỏi về chính mình. Qua sự dạy dỗ của Đức Kitô, qua sự thờ phượng và qua lòng bác ái, chúng ta khám phá những gợi ý mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để giúp chúng ta tìm thấy Ngài. Ngay cả khi tìm hiểu thêm về bản thân, chúng ta cũng tìm hiểu thêm về Ngài vì Ngài là Đấng tạo dựng chúng ta.
Giáo lý Công giáo cho biết: “Tất cả các thụ tạo đều mang một nét tương đồng nhất định với Chúa, đặc biệt là con người. Sự thật, sự tốt lành, vẻ đẹp của con người đều phản ánh sự hoàn hảo vô hạn của Thiên Chúa.” (GLCG số 41) Lời đó ám chỉ đến giáo huấn trong sách Khôn Ngoan: “Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành.” (Kn 13:5)
Trong cột trụ thứ hai của Sự Phục Hưng Thánh Thể, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã làm nổi bật tầm quan trọng của cuộc tìm kiếm này – tìm kiếm Chân, Thiện, Mỹ. Cột trụ thứ hai của Sự Phục Hưng là: Chiêm ngưỡng và công bố giáo lý về Sự Hiện Diện Thật của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua chân lý giáo huấn, vẻ đẹp của sự thờ phượng, sự tốt lành của việc đồng hành với những người nghèo khó và những người dễ bị tổn thương.
Chúa Giêsu nói “Ta là sự thật,” nghĩa là sự thật là con người. Khi chúng ta biết Con Người này, chúng ta nhận ra giọng nói của Ngài. Chúa Giêsu nói: “Chiên của tôi biết tôi và nghe tiếng tôi.” Khi chúng ta tìm kiếm sự thật, chúng ta bắt đầu nhận ra điều đó tốt hơn và chúng ta bắt đầu có khả năng phân biệt với đồ giả. Khi chúng ta biết tiếng nói của Sự Thật, khi nghe thấy điều gì đó có vẻ sai hoặc không đúng, chúng ta có thể quyết định và nói: “Tôi biết sự thật và Ngài sẽ không nói điều gì đó như vậy.”
Học về Thiên Chúa cũng giống như học về sự thật: Chúng ta học điều gì là sự thật qua một quá trình loại bỏ. Như Sherlock Holmes nói: “Khi bạn đã loại bỏ tất cả những gì là không thể thì bất cứ thứ gì còn lại, dù không thể xảy ra, cũng phải là sự thật.”
Thánh Tôma Aquinô đồng ý và đi xa hơn khi nói rằng chân lý mà bạn tìm thấy chính là Thiên Chúa. Hoặc, theo cách nói của thánh nhân là “liên quan Thiên Chúa, chúng ta không thể hiểu Ngài là gì, mà chỉ biết Ngài không phải là gì, và những thụ tạo khác trong mối quan hệ với Ngài như thế nào.”
Nhưng bạn có thể nghĩ rằng tôi đang tự mâu thuẫn với chính mình. Đầu tiên, tôi nói rằng chúng ta có thể biết sự thật, do đó tôi có thể biết Chúa vì Ngài là sự thật. Sau đó, tôi trích dẫn lời Thánh Tôma Aquinô nói rằng chúng ta không thể hiểu Ngài là ai. Điều này dẫn đến điểm chính xác mà các giám mục Hoa Kỳ nhắm đến trong cột trụ thứ hai này. Chúng ta không thể biết Thiên Chúa là Cha ngoại trừ Con – Đức Giêsu Kitô. Thánh Tôma Aquinô đủ thông minh để tạo ra sự khác biệt này. Công Đồng Chalcedon nói rõ rằng chúng ta cần phải cẩn thận để không nhầm lẫn hai bản tính của Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô không phải là Cha, nhưng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Đừng cố gắng bám vào điều đó. Chúng ta không được tạo ra để làm điều đó. Tuy nhiên, chúng ta đã được trao ban Thánh Thể.
Có thể Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một chất tốt hơn cho chuyến lưu trú của chúng ta trên trái đất chăng? Thánh Tôma Aquinô nói về sự hiệp nhất giữa những người siêu việt với Chân, Thiện, Mỹ. Còn cách nào tốt để nên một với Thiên Chúa hơn là tiêu thụ chính Ngài? Nếu chúng ta muốn tiêu thụ Ngài, còn cách nào tốt hơn là làm như vậy khi Ngài ở dạng tấm bánh – thực phẩm là nguồn cung cấp chủ yếu nhất trong bữa ăn hằng ngày của chúng ta?
Liệu Ngài có nên trao chính Ngài cho chúng ta theo cách khác ngoài dạng thực phẩm? Tội lỗi đến thế gian bởi Adam và Eva ăn Trái Cấm. Thiên Chúa đã đảo ngược lời nguyền bằng cách ban cho chúng ta lương thực từ trời. Thánh Phêrô Giulian Eymard nói: “Hãy có một tình yêu lớn lao đối với Chúa Giêsu trong Bí tích Tình Yêu. Đó là ốc đảo thánh thiêng của sa mạc. Đó là thần lương của người lữ hành. Đó là Hòm Bia Thánh. Đó là sự sống và Thiên Đàng tình yêu trên trái đất.” (Gởi Con Cái của Đức Mẹ, ngày 21-11-1851)
Vì vậy, chúng ta có thể tự tin công bố Sự Hiện Diện Thật của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể qua chân lý giáo huấn của chúng ta, bởi vì Thánh Thể là Chúa Kitô, Chúa Kitô là Chân Lý, và đó là điều Giáo Hội dạy. Không chỉ đơn giản là chân lý, Thánh Thể là hiện thân hoàn hảo nhất của chân lý bởi vì đó chính là Đấng Chân Lý.
Vẻ đẹp cũng là con người. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng những nhà thờ đẹp và thờ phượng trong những Thánh Lễ đẹp với âm nhạc hay, những lời cầu nguyện đẹp, và những bài giảng hay. Sự thật và vẻ đẹp có thể hoán đổi lẫn nhau. Ở đâu có vẻ đẹp, ở đó có sự thật; ở đâu có sự thật, ở đó có vẻ đẹp. Nếu điều gì đó không thật, nó sẽ không ngân vang vẻ đẹp vào tai chúng ta. Nếu cái gì đó không đẹp, nó sẽ không vang lên sự thật.
Chúng ta biết điều này bởi vì khi chúng ta nghe một bản nhạc hay, chúng ta nhận ra một sự thật nào đó trổi vượt hơn cả ngôn ngữ. Cách mà vẻ đẹp khiến chúng ta không nói nên lời không phải là bằng chứng cho thấy nó rời rạc, mà là bằng chứng về sự sâu sắc và sự thật ở thế giới khác của nó. Do đó, sự thờ phượng của chúng ta phải đẹp, vì nhờ vẻ đẹp mà sự thật trên trời vượt qua thế giới này có thể xuống trên chúng ta.
3. SỰ TỐT LÀNH CỦA SỰ ĐỒNG HÀNH
Thiên Chúa xác định: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40)
Khi nhận thấy điều tốt lành vị tha nào đó mà ai đó đã làm, tôi cảm thấy giằng xé trái tim mình giống như cảm giác khi tôi nghe một bài hát hay hoặc nhận ra một sự thật sâu sắc nào đó. Tất cả những kinh nghiệm này là những cuộc gặp gỡ nhỏ với Thiên Chúa. Riêng tôi cũng có thể làm chứng rằng cảm giác này chưa bao giờ mạnh hơn khi tôi lãnh nhận Thánh Thể. Không phải lần nào tôi cũng cảm nghiệm được như vậy, nhưng không có kinh nghiệm nào chạm đến trái tim tôi thường xuyên hơn việc rước lễ. Bởi vì Thiên Chúa tạo ra trái tim của chúng ta nên Ngài biết chính xác cách tiếp cận nó tốt nhất.
Việc lãnh nhận Thánh Thể chạm đến trái tim tôi bởi vì tôi nhận ra sự hy sinh yêu thương của Ngài khi tôi lãnh nhận. Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Sự tốt lành trong việc đồng hành của chúng ta với người khác bắt đầu từ việc Chúa Kitô đồng hành với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Sự tốt lành của chúng ta là sự tràn đầy tình yêu và sự tốt lành mà chúng ta nhận được khi chúng ta tiêu thụ Mình Thánh Chúa và làm cho sự tốt lành trở nên một với chúng ta.
Qua việc giảng dạy, tôn thờ và làm việc thiện theo sự thật, người Công giáo tuyên bố giáo lý về sự Hiện Diện Thật của Chúa Giêsu, đó là nguồn gốc của tất cả những điều này. Tôi ca ngợi nỗ lực của các giám mục Hoa Kỳ trong việc giảng dạy những chân lý sâu sắc này theo một cách độc đáo. Hy vọng Cuộc Phục Hưng Thánh Thể thành công trong việc cho người Công giáo thấy rằng Sự Hiện Diện Thật của Chúa Giêsu không chỉ là một giáo huấn khác của Giáo Hội, mà đó là hiện thân của Chân, Thiện, Mỹ. Và đó là điều Giáo Hội dạy.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)